Những biến động trong một thế giới toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế – thời cơ và thách thức

Dưới tác động của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, thế giới đương đại đang có những chuyển biến, tác động sâu sắc trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội; trong đó, sự dịch chuyển quyền lực từ Tây sang Đông và sự điều chỉnh chiến lược của các nước lớn tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với các nước vừa và nhỏ.

1. Sự chuyển dịch quyền lực và sự điều chỉnh chiến lược

Thế giới đã, đang chứng kiến ba cuộc chuyển giao quyền lực lớn làm thay đổi cơ bản đời sống quốc tế trên mọi mặt, từ chính trị, quân sự đến kinh tế, văn hóa – xã hội. Cuộc chuyển giao quyền lực thứ nhất là sự trỗi dậy của châu Âu từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XVIII, dưới tác động của cách mạng công nghiệp, thương mại và đầu tư. Cuộc chuyển giao quyền lực thứ hai là sự trỗi dậy của Mỹ từ những năm cuối thế kỷ XIX, nhất là từ sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945), làm cho Mỹ trở thành siêu cường chi phối trật tự quốc tế cho tới cuối thế kỷ XX. Bước vào thế kỷ XXI, do suy yếu tương đối của Mỹ và sự trỗi dậy mạnh mẽ của một số nước, nổi bật là Trung Quốc và Ấn Độ, dẫn tới sự chuyển dịch quyền lực lần thứ ba trên phạm vi toàn cầu. Đó là sự chuyển dịch trọng tâm quyền lực từ Tây sang Đông, dẫn tới sự thay đổi tương quan so sánh lực lượng giữa các nước lớn trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, tác động sâu sắc đến quan hệ quốc tế, làm cho cục diện thế giới theo hướng đa cực, đa trung tâm diễn ra nhanh hơn. Trong bối cảnh như vậy, hầu hết các nước, nhất là những nước lớn có sự điều chỉnh chiến lược, nhằm tranh giành ảnh hưởng, khẳng định vị thế của mình.

Với mục tiêu duy trì vị thế siêu cường duy nhất, Mỹ tiếp tục đẩy mạnh chiến lược quân sự, an ninh toàn cầu bằng việc tập hợp lực lượng, điều chỉnh chiến lược với từng khu vực để khống chế, kìm hãm các thế lực thách thức “ngôi vị số 1” của mình. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, chính quyền Đô-nan Trăm vừa phải thận trọng trong việc tìm cách cân bằng lợi ích của Mỹ trên thế giới, vừa củng cố và tăng cường vị thế siêu cường, đưa nước Mỹ “vĩ đại trở lại”, đảm bảo cho họ vẫn là quốc gia đặt ra “luật chơi” trong quan hệ quốc tế.

Trung Quốc với sức mạnh được tăng lên sau nhiều năm phát triển, đang mở rộng không gian chiến lược để khẳng định vị thế cường quốc khu vực và quốc tế. Hiện nay, họ đang triển khai nhiều biện pháp, như: tăng thực lực quân sự, chú trọng phát triển nhanh lực lượng hải quân để mở rộng hoạt động ra hướng biển, gia tăng ảnh hưởng ở Đông Nam Á, Đông Á, từng bước cạnh tranh ảnh hưởng với Mỹ ở châu Á – Thái Bình Dương. Tiến bước xa hơn, Trung Quốc đẩy mạnh thực thi sáng kiến “Vành đai và con đường”, tham gia và thúc đẩy nhóm nền kinh tế mới nổi (BRICS) và Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO), hướng tới xây dựng cơ chế hợp tác lấy Trung Quốc là trọng tâm, động lực. Sự phát triển đó dẫn đến mâu thuẫn, căng thẳng, cọ xát giữa Trung Quốc với Mỹ, diễn ra tại nhiều khu vực trên thế giới, nhưng ở châu Á – Thái Bình Dương, đặc biệt là ở Biển Đông theo hướng ngày càng tăng.

Đối với Nga, Tổng thống V.I. Pu-tin đẩy mạnh các hoạt động nhằm giành lại vị thế của mình tại các khu vực ảnh hưởng truyền thống và trên quốc tế, nhất là trước sự kiềm tỏa của Mỹ và phương Tây, từ sau khi Nga sáp nhập Crưm. Điển hình là, Nga tăng cường lực lượng, vũ khí, triển khai tấn công và giành nhiều thắng lợi trong việc không kích lực lượng Nhà nước Hồi giáo tự xưng (IS) ở Xy-ri. Điều đó chứng tỏ, mặc dù gặp nhiều khó khăn về kinh tế, nhưng Nga vẫn là một cường quốc, có đủ lực để sẵn sàng bảo vệ lợi ích, đồng thời buộc Mỹ và phương Tây phải tính tới vai trò của mình khi giải quyết những vấn đề trên thế giới.

Nhiều dự báo cho thấy, đến năm 2020, Nhật Bản vẫn là cường quốc kinh tế thế giới nhưng nhiều khả năng sẽ bị Ấn Độ thách thức ở vị trí số 3. Vì vậy, nhằm duy trì vị thế của mình, trở thành một cường quốc có ảnh hưởng cả về kinh tế, chính trị, quân sự trong khu vực và trên thế giới, Chính phủ Nhật Bản cho tiến hành sửa đổi Hiến pháp, gỡ bỏ ràng buộc nội bộ để tăng quyền tự do hành động trong một số vấn đề liên quan đến an ninh quốc gia. Đồng thời, phát huy công cụ “ngoại giao kinh tế”, tăng cường quan hệ đồng minh, liên kết chặt chẽ và chia sẻ trách nhiệm với Mỹ trong những vấn đề quốc tế; tập trung xử lý quan hệ với Trung Quốc, nhất là những căng thẳng trong tranh chấp biển, đảo; tham gia tích cực vào các cơ chế hợp tác do ASEAN chủ đạo để có vai trò lớn hơn.

Những năm gần đây, Ấn Độ có sự phát triển mạnh, nhiều khả năng vượt lên thành nền kinh tế thứ 3 thế giới. Trong chiến lược của mình, Ấn Độ tiếp tục duy trì cân bằng quan hệ với các nước lớn, trước hết là Mỹ và Trung Quốc, nhưng cạnh tranh lợi ích với Trung Quốc sẽ gay gắt hơn; tiếp tục khẳng định ảnh hưởng ở khu vực Nam Á và Ấn Độ Dương; đẩy mạnh chiến lược “hướng Đông”, gia tăng ảnh hưởng ở Đông Nam Á, quan tâm hơn tới an ninh biển và bảo vệ trật tự biển.

Còn đối với EU, đang hướng vào xử lý các vấn đề nổi cộm của khối, như: Brexit, khủng hoảng nợ công, nhập cư, chống khủng bố, v.v. Vì vậy, sự quan tâm và nguồn lực dành cho khu vực châu Á – Thái Bình Dương có chiều hướng giảm. Tuy nhiên, EU vẫn duy trì quan hệ với các đối tác ở các khu vực khác, trong đó có ASEAN.

Trong bối cảnh chung của thế giới, ASEAN tiếp tục giữ và phát huy vị trí địa chiến lược của mình, bảo đảm khả năng thích ứng và tự chủ trong quan hệ với các nước lớn. ASEAN ưu tiên triển khai tầm nhìn 2025 và các kế hoạch hợp tác trên 3 trụ cột: chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội; thu hẹp khoảng cách phát triển, tăng cường kết nối; duy trì đoàn kết nội khối; đẩy mạnh quan hệ đối ngoại với tất cả các đối tác ngoài khu vực, trong đó có EU.

Bên cạnh đó, các vấn đề toàn cầu, an ninh phi truyền thống; nhất là, trào lưu dân túy và xu hướng bảo hộ đang gây ra một số tác động khá tiêu cực trong quan hệ quốc tế. Nó cổ vũ cho việc bảo vệ lợi ích cục bộ của mỗi quốc gia; chống liên kết, hội nhập quốc tế, hạn chế liên kết kinh tế, giảm sự ủng hộ đối với tự do thương mại đa phương. Do đó, làm tăng sự va chạm về lợi ích giữa các quốc gia; tăng mâu thuẫn, bất đồng vốn có về một số vấn đề kinh tế, thương mại, không loại trừ có những hành động “trả đũa” dẫn tới chiến tranh thương mại, tỷ giá. Điển hình là việc ông Đô-nan Trăm giành thắng lợi trong bầu cử Tổng thống Mỹ, đã đánh dấu lần đầu tiên một ứng cử viên theo đường lối dân túy lên nắm quyền ở nước này. Với khẩu hiệu “Nước Mỹ trên hết”, chính phủ Mỹ đã thực thi các chính sách: hạn chế người nhập cư, rút khỏi một số hiệp định,… nhằm bảo hộ sản xuất và quyền lợi của nước Mỹ.

Tình hình trên cho thấy, sự cạnh tranh quyền lực, lợi ích và vị thế chiến lược giữa các nước lớn, đặc biệt là giữa Mỹ, Trung Quốc và Nga đang diễn ra ngày càng quyết liệt, tác động nhiều chiều đến đời sống quốc tế, cả tích cực và tiêu cực, tạo ra thời cơ và thách thức đối với các nước vừa và nhỏ.

2. Thời cơ và thách thức đối với các nước vừa và nhỏ

Về thời cơ. Có một điểm chung tích cực là, trong tuyên bố của mình, các nước đều hướng tới xây dựng một thế giới hòa bình, hợp tác và phát triển, không sử dụng vũ lực trong giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp. Điều này “chí ít” tạo lòng tin, môi trường hòa bình để các quốc gia, dân tộc “yên tâm” đẩy mạnh hợp tác, xây dựng đất nước phát triển. Nhằm tạo ảnh hưởng trên thế giới, các nước vừa và nhỏ, trong đó có Việt Nam, sẽ trở thành đối tượng lôi kéo, tranh giành của các nước lớn, không những về chính trị mà còn về kinh tế. Như vậy, vai trò các nước vừa và nhỏ ngày càng tăng, nếu các nước biết tận dụng thời cơ này, củng cố đoàn kết, tăng cường tiếng nói trong đời sống chính trị quốc tế, cùng nhau đưa ra những “luật chơi” để đỡ bị thiệt thòi, công bằng hơn, thì các nước lớn sẽ phải có những nhượng bộ, tuy không lớn. Theo đó, tiếng nói, vị thế của các nước vừa và nhỏ trong quan hệ quốc tế, giải quyết những vấn đề toàn cầu được tôn trọng. Đồng thời, tạo cơ hội mở rộng quan hệ với các nước lớn, không nghiêng hẳn về bên nào, không bị lệ thuộc vào nước lớn nào.

Tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương, cục diện khu vực mới với sự can dự ngày càng mạnh mẽ của Mỹ, sự lớn mạnh của Trung Quốc và sự dính líu ngày càng sâu vào các vấn đề khu vực của các cường quốc trên thế giới đã mở ra thời cơ để các nước trong khu vực phát triển quan hệ với cả Trung Quốc và Mỹ cũng như với các cường quốc khác, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho tăng cường xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển của khu vực châu Á – Thái Bình Dương nói chung, khu vực Đông Nam Á nói riêng.

Trong bối cảnh đó, mặc dù ASEAN còn có không ít khó khăn và hạn chế, nhưng nhiều khả năng các nước này sẽ tiếp tục là nhân tố thúc đẩy hợp tác khu vực. Bởi: Thứ nhất, sự nghi kỵ và thiếu niềm tin chính trị giữa các nước lớn tạo điều kiện cho ASEAN đóng vai trò “trung tâm” trong việc xây dựng các cơ chế hợp tác khu vực. Các nước lớn sẽ dễ dàng hơn trong việc xem xét các cơ chế hợp tác, đối thoại do ASEAN khởi xướng, điều phối. Thứ hai, thành công của từng nước thành viên ASEAN trong sự nghiệp phát triển đất nước theo hướng hiện đại hóa; nỗ lực duy trì hòa bình, ổn định ở khu vực làm cho ASEAN trở thành một trong những tổ chức có vai trò quan trọng đối với trật tự ở khu vực Đông Á. Thứ ba, ASEAN đã nhất trí xây dựng Cộng đồng với ba trụ cột từ cuối năm 2015, làm cho hợp tác sẽ đi vào thực chất hơn. Đây cũng là điều kiện thuận lợi để ASEAN đóng vai trò hạt nhân trong hợp tác với các nước lớn. Do cạnh tranh chiến lược với nhau, nên các nước lớn đều ủng hộ vai trò của ASEAN trong nỗ lực xây dựng thể chế hợp tác khu vực. Các Diễn đàn ARF, ADMM+, Shang-ri-La,… là những cơ chế hợp tác – dù còn một số hạn chế – được xem là không thể thay thế ở châu Á – Thái Bình Dương. Nói cách khác, ASEAN – một khối các nước vừa và nhỏ – được các nước lớn ủng hộ, đang đóng vai trò thúc đẩy, chi phối tiến trình, hợp tác khu vực, tạo nên đặc điểm quan trọng ở châu Á – Thái Bình Dương. Đây là thời cơ thuận lợi để các nước trong khối đẩy mạnh hợp tác, phát triển.

Vềthách thức. Những biến động trong một thế giới toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đặt ra cho các nước vừa và nhỏ nhiều thách thức, nhất là việc giữ vững độc lập, tự chủ trong quan hệ quốc tế. Hầu hết các nước vừa và nhỏ là những nước đang hoặc chậm phát triển, rất cần sự đầu tư, chuyển giao công nghệ, viện trợ,… của các nước phát triển, vì vậy dễ dẫn tới bị lệ thuộc vào một cường quốc nhất định về kinh tế. Từ lệ thuộc về kinh tế sẽ dẫn đến lệ thuộc về chính trị, bị chi phối, thao túng, không còn giữ được độc lập, tự chủ trong quyết định các vấn đề nội bộ cũng như quan hệ quốc tế. Đó có lẽ là thách thức gay gắt đối với các nước vừa và nhỏ hiện nay.

Một thách thức khác đối với các nước vừa và nhỏ là phải tạo thế “cân bằng” tương đối trong quan hệ với các nước lớn, không quá thiên về bất kỳ nước lớn nào để tránh trở thành nguyên nhân đối đầu giữa các cường quốc, dẫn đến phải hứng chịu xung đột vũ trang và chiến tranh. Thực tiễn cho thấy, khi quyền lợi giữa các nước lớn bị cọ xát, có thể xảy ra xung đột, thì các nước lớn tìm cách chuyển hóa xung đột ấy sang các nước vừa và nhỏ. Nói cách khác, nước lớn sẽ tìm cách tiến hành “chiến tranh ủy nhiệm” như trong thế kỷ XX tại các nước vừa và nhỏ, nhất là ở nơi tập trung cao những mâu thuẫn lợi ích giữa các nước lớn.

Bên cạnh đó, việc phải tìm cách giải quyết các vấn đề an ninh phi truyền thống (thiên tai, dịch bệnh, khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, biến đổi khí hậu, an ninh năng lượng, lương thực, an ninh nguồn nước,…) cũng như khắc phục những hệ lụy do các chính sách theo chủ nghĩa dân túy và xu hướng bảo hộ gây ra những thách thức không chỉ về nhân lực, vật lực, tài lực, mà còn phải có cách hiểu, ứng xử mới về khái niệm “chủ quyền quốc gia” thời kỳ hội nhập quốc tế trong bối cảnh các quốc gia ngày càng phụ thuộc nhau sâu sắc hơn. Những thách thức đó, vẫn đã, đang tiềm ẩn những yếu tố có thể dẫn đến biến động phức tạp, phạm vi rộng lớn và nhiều hệ lụy to lớn hơn đối với vấn đề hòa bình, ổn định và phát triển của nhân loại. Vì vậy, nắm bắt thời cơ, khắc phục những thách thức nhằm tăng cường hợp tác quốc tế, thúc đẩy sự phát triển, ngăn chặn, dập tắt những mầm mống gây ra biến động, xung đột vũ trang, đòi hỏi các nước vừa và nhỏ phải có đường lối, quyết sách đúng đắn, phù hợp.

Đối với nước ta, nhận thức đúng về xu thế của thời đại và cục diện thế giới, khu vực, Đảng và Nhà nước đã có định hướng chỉ đạo và có quyết sách đúng đắn, kịp thời trên cơ sở lợi ích quốc gia – dân tộc. Nhờ đó, chúng ta đã tận dụng được thời cơ, góp phần thúc đẩy đất nước phát triển, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nổi bật là, nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Chính trị – xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao, v.v. Những thành tựu đó đã tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới. Nhằm nắm bắt thời cơ, hạn chế thách thức trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh, hoạt động đối ngoại nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”1.

Theo :GS, TS. VŨ VĂN HIỀN, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương (http://tapchiqptd.vn)

Leave a Reply

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *